NHÂN SÂM
Ngày đăng: ngày 26 tháng 3 năm 2025
NHÂN SÂM (Panax Ginseng)
Cây Nhân sâm, tên khoa học là Panax ginseng C.A. Mey, có các bộ phận dùng gồm:
- Thân rễ và rễ (Radix ginseng hay Radix ginseng sylvestris).
- Lá Nhân sâm (Folium ginseng).
- Quả Nhân sâm (Fructus ginseng).
- Hoa Nhân sâm (Flos ginseng).
Hiện tại, tất cả bộ phận của cây Nhân sâm đã được ứng dụng trong thị trường dược phẩm, đặc biệt ở mảng y học cổ truyền. Có ba loại Nhân Sâm phổ biến: Nhân Sâm trồng gọi là Viên sâm (Panax ginseng C.A. Mey. Forma sativum Chao et Shih. hay Yuanshen), Nhân Sâm mọc hoang gọi là Sơn sâm (Panax ginseng C.A. Mey forma sylvestre Chao et Shih. hay Linxia Shanshen) và Nhân sâm đã qua chế biến từ những củ sâm đủ 6 năm tuổi trở lên được gọi là Hồng sâm (Radix Ginseng Rubra hay Hongshen). Nhân Sâm dùng là thuốc được ghi đầu tiên trong sách “Bản kinh”.
Tính vị quy kinh:
Ngọt hơi đắng, hơi ôn. Quy kinh tỳ, tâm và phế.
- Theo sách thuốc cổ:
-Sách Bản kinh: “vị ngọt hơi hàn”.
-Sách Danh Y biệt lục: “hơi ôn, không độc”.
-Sách Bản thảo bị yếu: “thuốc sống ngọt, đắng, hơi lương, thuốc chín ngọt ôn”.
- Về quy kinh:
-Sách Bản thảo diễn nghĩa bổ di “Nhập thủ thái âm kinh”.
-Sách Bản thảo hội ngôn: “Nhập phế tỳ”.
-Sách Dược phẩm hoá nghĩa: “Nhập tỳ vị phế kinh”.
Thành phần chủ yếu:
Bao gồm các nhóm: Saponin triterpenoids, Polysaccharides, Polyacetylenes, các hợp chất Phenolic, Peptides, v.v ... Trong đó, nhóm Saponin triterpenoids được xem là nhóm thành phần hoạt chất chính, sau khi thuỷ phân các saponin này ta thu được các loại sapogenin sau:
Saponin dẫn chất của 20(S)-protopanaxadiol, gọi tắt là PPD: (Kiểu A) Ginsenosid-Rb1, Ginsenosid-Rb2, Ginsenosid-Rb3, Ginsenosid-Rc, Ginsenosid-Rd, Ginsenosid-R1, Ginsenoside F2, Malolnyl-ginsenoside-Rb1, Notoginsenosid-R4, Notoginsenosid-Fa, Notoginsenosid-Fc, v.v …
Hình ảnh trích từ sách Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ Nhân sâm.
Saponin dẫn chất của 20(S)-protopanaxatriol, gọi tắt là PPT: (Kiểu B) Ginsenosid-Rg1, Ginsenosid-Rg2, Ginsenosid nc, Ginsenosid nf, Ginsenosid-Rh1, Ginsenosid-Rf, Ginsenosid-Re, Ginsenoside F1, Ginsenoside F3, Pseudoginsenosid RT3, Notoginssenoside R1, Notoginssenoside R2, Notoginssenoside R3, …
Hình ảnh trích từ sách Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ Nhân sâm.
Saponin dẫn xuất của acid oleanolic: Ginsenosid R0, Zingibrosid R1, Stipuleanosid R1, Stipuleanosid R2, Pseudoginseng RT1, …
Hình ảnh trích từ sách Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ Nhân sâm.
Saponin dẫn xuất của ocotillol: Pseudoginsenosid F11 (Kiểu A), Pseudoginsenosid RT4 (Kiểu B), Majonosid-R1 (Kiểu B), Majonosid-R2 (Kiểu B), …
Saponin có cấu trúc ocotillol (Hình ảnh trích từ sách Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ Nhân sâm)
Saponin dammaran khác: Majonosid F4 (Kiểu A), Chikusetsusaponin L9a (Kiểu A), Majonosid F3 (Kiểu B), Majonosid F2 (Kiểu C và 24S), Chikusetsusaponin L9bc (Kiểu C), Ginsenoside M7cd (Kiểu C), Chikusetsusaponin LT8 (Kiểu D), …
Saponin dammaran khác (Hình ảnh trích từ sách Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ Nhân sâm)
Hàm lượng saponin được tìm thấy trong các bộ phận cây được xếp theo thứ tự như sau: nụ hoa > quả > cành > lá > rễ > hạt. Vì vậy, lá được xem là nguồn nguyên liệu tốt để chiết xuất saponin từ Nhân sâm. (Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam).
Theo tiêu chuẩn kiểm nghiệm về Nhân sâm (Panax Ginseng) được công bố trong Dược điển Hàn Quốc năm 2024, hai hợp chất ginsenoside Rg1 và Rb1 được xác định là chỉ thị hóa học quan trọng trong việc đánh giá chất lượng các sản phẩm có chứa Nhân sâm Hàn Quốc. Quá trình định lượng hai hợp chất này được thực hiện bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC), với tiêu chí kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt. Kết quả phân tích được xem là đạt yêu cầu khi độ lệch chuẩn tương đối (RSD) của diện tích pic sắc ký ở cả hai đều không vượt quá 1,5%, đảm bảo tính nhất quán và độ tin cậy trong kiểm soát chất lượng dược liệu.
Cây Nhân sâm chứa khoảng 5% đường gồm: 2 monosaccharid (D. Glucose và D. rhamnose); 2 disaccharid (sucrose và maltose); 3 trisaccharid (fructo furanose, glucopyranose); nhóm polysaccharid gồm đường (galactose, arabinose, rhamnose) và protein (các acid amin: aspartic acid, threonin, serin, glutamic acid, glycin, alamin, valin, methiomin, isoleucin, …). Ngoài ra, các glycan cũng được phân lập từ rễ là các panaxan, chẳng hạn: panaxan A, B, C, D, F, G, H, I, J, K, L, Q, R, S, T, U.
Polyacetylen trong Nhân sâm, được phát hiện từ những năm 1960 với khả năng phòng chống ung thư, đã mở ra một hướng nghiên cứu mới đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây không chỉ khẳng định tiềm năng này mà còn tiết lộ thêm nhiều đặc tính sinh học đa dạng khác. Polyacetylen trong Nhân sâm được chứng minh có khả năng kháng nấm, kháng khuẩn, chống ngưng tập tiểu cầu, độc tế bào, và đặc biệt là kháng ung thư. Một số hợp chất polyacetylen tiêu biểu trong Nhân sâm bao gồm Panaxynol (falcarinol), Panaxytriol, Panaxydol, Panaxacol... Những hợp chất này không chỉ tạo nên giá trị đặc biệt của Nhân sâm mà còn mở ra triển vọng ứng dụng trong y học hiện đại.
Không những ở rễ, lá và cành Nhân sâm chứa các flavonoid giá trị gồm: kaempferol, trifolin, panasenosid, … cùng với một vài nhóm vitamin khác như: nicotinic acid, riboflavin, thiamine, …
Một số polyphenol được tìm thấy trong các nghiên cứu gần đây sau khi phân lập dịch chiết lá và rễ Nhân sâm, gồm: Vanillic acid, Chlorogenic acid, Gentisic acid, Rutin, m-Coumaric acid, p-Coumaric acid, …
Tác dụng dược lý:
1. Theo Y học cổ truyền
Nhân Sâm có tác dụng: đại bổ nguyên khí, bổ tỳ ích phế, chỉ khát, an thần, tăng trí. Chủ trị các chứng khí hư dục thoát, mạch vi dục tuyệt, tỳ khí phế khí hư nhược, tân dịch tổn thương, chứng tiêu khát, khí huyết hư suy, thần chí rối loạn, dương nuy.
- Trích đoạn Y văn cổ:
-Sách Bản kinh: “bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn phách, chỉ kinh quí, trừ tà khí, minh mục, khai tâm ích trí”.
-Sách Danh Y biệt lục: “điều trung, chỉ tiêu khát, thông huyết mạch, …”.
-Sách Dược tính bản thảo: “chủ ngũ tạng khí bất túc, ngũ lao, thất thương, hư tổn, gầy yếu, … bảo trung thủ thần, chủ phế nuy”…
-Sách Nhật hoa tử bản thảo: điều trung trị khí tiêu thực khai vị. Sách Y học khởi nguyên dược loại pháp tượng viết: “bổ nguyên khí chỉ khát sinh tân dịch”.
-Sách Bản thảo cương mục: “nhân sâm bổ phế khí, phế khí vượng thì khí của các tạng khác cũng vượng … Nhân sâm đắc Hoàng Kỳ, Cam thảo ôn trừ đại nhiệt, tả âm hoả, bổ nguyên khí, …”.
-Sách Trấn nam bản thảo: “trị âm dương bất túc, phế khí hư nhược”.
-Sách Bản thảo tân biên: “Nhân sâm dùng phối hợp với các thuốc khác như cần thăng đề gia Thăng ma, Sài hồ, cần hoà trung gia Trần bì, Cam thảo, kiện tỳ gia Bạch linh, bạch truật, an thần gia Viễn chí, Táo nhân, trị ho gia Bạc hà Tô diệp, tiêu đờm gia Bán hạ Bạch giới tử, giáng vị hoả gia Thạch cao, Tri mẫu, khư hàn gia Phụ tử Can khương, bại độc gia Cầm liên, Chi tử, hạ thực gia Đại hoàng, Chỉ thực”.
2. Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Nhân sâm Hàn Quốc hay còn gọi là sâm Cao Ly, sâm Triều Tiên đã được sử dụng hơn 2,000 năm ở Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và các nước ở Đông Á như là một vị thuốc bổ với danh xưng là “king of medicine” (vua của các phương thuốc) hay “elixir of life” (cồn thuốc của sự sống). Hồng sâm Triều Tiên (Korean red ginseng) được công nhận là thương phẩm có phẩm chất tốt nhất của sâm Triều Tiên so với bạch sâm Triều Tiên (Korean white ginseng) với quy trình chế biến dựa trên ba tiêu chí để đảm bảo hiệu lực và độ an toàn cao:
- Gia tăng tác dụng dược lý (ví dụ như tác dụng kháng ung thư, tác dụng chống oxy hoá của hồng sâm mạnh hơn bạch sâm);
- Giảm thiểu tác dụng phụ hay độc tính;
- Các chế phẩm có thể bảo quản được trong thời gian dài.
Y học cổ truyền phương Đông đã chứng minh Hồng sâm đóng vai trò quan trọng trong việc dự phòng và điều trị những bệnh lý mạn tính, cần điều trị dài ngày như tiểu đường, ung thư, bệnh xơ vữa động mạch, huyết khối, rối loạn lipid máu, cao huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não, … do tác dụng tăng cường thể lực và gia tăng sức đề kháng không đặc hiệu của cơ thể.
Y học hiện đại đã khẳng định rằng Nhân sâm đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự hằng định nội môi của hệ thần kinh trung ương, hệ nội tiết và hệ miễn dịch, giúp cơ thể đạt được trạng thái cân bằng tối ưu. Riêng Hồng sâm Triều Tiên, tuy không thể so sánh trực tiếp về hiệu quả với các loại thuốc đặc trị Tây y, nhưng giá trị của nó nằm ở khả năng sử dụng lâu dài, đặc biệt đối với những bệnh nhân cao tuổi. Điều đáng chú ý là các nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh rằng Nhân sâm hay Hồng sâm khi sử dụng trong thời gian dài hầu như không gây tác dụng phụ, trở thành lựa chọn an toàn và bền vững cho việc chăm sóc sức khỏe toàn diện.
Sau đây là một vài nghiên cứu dược lý nổi bật về tác dụng của Nhân sâm hiện nay được tìm thấy:
- Nhân sâm có tác dụng gia tăng quá trình ức chế và gia tăng của vỏ não, làm hồi phục bình thường khi hai quá trình trên bị rối loạn. Saponin Nhân sâm lượng nhỏ chủ yếu làm hưng phấn trung khu thần kinh với lượng lớn có tác dụng ức chế.
- Nhân sâm có tác dụng tăng sức lao động trí óc và chân tay chống mệt mỏi, làm gia tăng hiệu suất hoạt động tư duy và thể lực. Chống lão hoá, cải thiện chức năng của não ở người lớn tuổi, tăng khả năng tập trung trí lực, tăng trí nhớ. Vào tháng 02/2022, các nhà nghiên cứu đã đạt được bước tiến quan trọng khi khám phá cơ chế tác động của Nhân sâm trong việc điều trị chứng mất trí nhớ liên quan đến suy giảm năng lượng sóng trên mô hình chuột thí nghiệm. Thông qua phân tích chuyển hóa nước tiểu, nghiên cứu đã làm sáng tỏ cách Nhân sâm điều chỉnh các chất chuyển hóa quan trọng, góp phần cải thiện chức năng não bộ và khả năng nhận thức bị suy giảm.
- Nhân sâm giúp cơ thể tăng khả năng thích nghi, khả năng phòng vệ đối với những kích thích có hại, Nhân sâm vừa có thể làm hồi phục huyết áp ở cơ thể choáng do mất máu vừa có thể làm hạ huyết áp ở người có huyết áp cao, vừa có thể chống ACTH làm tuyến thượng thận phì đại, vừa có thể chống Corticoid làm teo thượng thận. Nhân sâm vừa có thể làm hạ đường huyết cao do ăn uống, vừa có thể nâng cao trạng thái đường huyết hạ do Insulin gây nên.
- Nhân sâm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, tăng cường khả năng thực bào của hệ tế bào võng nội bì, tăng hiệu suất chuyển hóa của tế bào lâm ba và globulin IgM, do đó mà nâng cao tính miễn dịch của cơ thể. Theo tài liệu “những cây thuốc và vị thuốc Việt nam”, những thí nghiệm của Daugolnikof (1950-1952), Brekman và Phruentov (1954-1957) và Abramow (1953) cũng cho biết Nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng của động vật đối với bệnh tật. Tháng 01/2021, một đánh giá có hệ thống đã được công bố, tập trung làm rõ tiềm năng tăng cường hệ miễn dịch của các hợp chất ginsenoside thông qua các nghiên cứu trong ống nghiệm và trên mô hình động vật thí nghiệm. Phần lớn các kết quả thu được đều chỉ ra tác động tích cực của ginsenoside trong việc kích thích và điều hòa hoạt động của hệ miễn dịch. Cụ thể, các hợp chất này được ghi nhận có khả năng thúc đẩy sự gia tăng của các tế bào miễn dịch quan trọng, cải thiện phản ứng viêm cũng như tăng cường cơ chế bảo vệ tự nhiên của cơ thể.
- Lượng ít dịch Nhân sâm làm tăng lực co bóp tim của nhiều loại động vật, nếu nồng độ cao thì làm giảm lực co bóp của gian sống của súc vật choáng trên thực nghiệm, đối với động vật suy tuần hoàn cấp do mất nhiều máu, thuốc làm tăng cường độ và tần số co bóp của tim, đối với suy tim tác dụng cường tim của thuốc càng rõ.
- Nhân sâm có tác dụng hưng phấn vỏ tuyến thượng thân. Các tác giả cho rẳng cơ chế là do thông qua vùng dưới đồi và tuyến yên tiết ra chất ACTH, làm tăng cAMP của vỏ tuyến thượng thận. Thân và lá của Nhân sâm cũng có tác dụng hưng phấn hệ tuyến yên – vỏ thượng thận. Nhân sâm có tác dụng kích thích hóc môn sinh dục đực cũng như cái. Một báo cáo kết quả lâm sàng tháng 10/2017 đã công bố những phát hiện đầy hứa hẹn về vai trò của Nhân sâm Hàn Quốc trong việc cải thiện chức năng thận ở các bệnh nhân điều trị suy tuyến thượng thận. Nghiên cứu này không chỉ ghi nhận sự cải thiện rõ rệt trong các chỉ số chức năng thận sau khi sử dụng Nhân sâm, mà còn làm sáng tỏ cơ chế tác động của hoạt chất quý giá này trong việc hỗ trợ phục hồi và bảo vệ sức khỏe thận.
- Thuốc có tác dụng hạ đường huyết. Đối với thực nghiệm, đường huyết cao ở chó, thuốc có tác dụng cải thiện trạng thái chung và hạ đường huyết. Vào tháng 5/2024, một nghiên cứu quan sát có hệ thống đã được thực hiện để đánh giá khả năng kiểm soát đường huyết của các ginsenosides – những hợp chất hoạt tính sinh học chủ đạo được tìm thấy trong chi Nhân sâm (Panax), bao gồm cả Nhân sâm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các ginsenosides không chỉ giúp cải thiện khả năng kiểm soát đường huyết ở các mô hình động vật thí nghiệm mà còn góp phần làm giảm thiểu các biến chứng liên quan đến bệnh đái tháo đường.
- Saponin Nhân sâm làm tăng chuyển hoá lipid, tăng cường sự hợp thành sinh vật học cholesterol và lipoprotein trong gan chuột cống thực nghiệm. Nhưng lúc gây mô hình (cholesterol) cao trên động vật thì Nhân sâm có tác dụng làm hạ. Nhân sâm có thể ngăn ngừa sự phát sinh cholesterol cao ở thỏ, vì vậy mà ngăn ngừa được sự hình thành xơ mỡ động mạch. Cụ thể hơn vào tháng 03/2023, một nghiên cứu tiền lâm sàng đã tập trung làm rõ vai trò của saponin Nhân sâm Rg2 trong việc cải thiện tình trạng xơ vữa động mạch trên mô hình chuột thí nghiệm. Kết quả thu được cho thấy Rg2 có khả năng làm giảm sự tích tụ mảng bám cholesterol trên thành động mạch, đồng thời cải thiện đáng kể các chỉ số liên quan đến sức khỏe tim mạch.
- Nhân sâm có khả năng làm giảm tác hại của chất phóng xạ đối với cơ thể.
- Saponin Nhân sâm Rh2 có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của tế bào ung thư. Ngoài ra, nghiên cứu gần đây về hoạt chất acid vanillic được chiết xuất từ Nhân sâm cũng ức chế sự tăng sinh của tế bào ung thư ác tính.
- Nhân sâm có tác dụng bảo hộ gan của thỏ và chuột cống, gia tăng chức năng giải độc gan, Nhân sâm còn có tác dụng nâng cao thị lực và làm tăng khả năng thích nghi của thị giác đối với bóng tối. Cụ thể hơn trong nghiên cứu gần đây vào tháng 03/2024, một nghiên cứu khác đã làm sáng tỏ tác dụng dược lý bảo vệ gan của saponin Nhân sâm Rg3. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, Rg3 có khả năng thúc đẩy chức năng giải độc gan thông qua việc giảm tổn thương tế bào gan và cải thiện các enzym liên quan đến quá trình chuyển hóa độc tố.
- Ginsenoside F2, một hợp chất được chiết xuất từ lá cây Nhân sâm, đã được chứng minh là có khả năng làm giảm hiệu quả tình trạng viêm loét đại tràng do Muối natri sulfat dextran (DSS) gây ra. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy, hợp chất này không chỉ có tác dụng kháng viêm mà còn thể hiện tiềm năng hứa hẹn trong việc phòng ngừa các bệnh viêm đường ruột (Inflammatory Bowel Disease - IBD), mở ra hướng đi mới trong việc phát triển các liệu pháp tự nhiên hỗ trợ sức khỏe đường tiêu hóa.
- Saponin Nhân sâm Rg1, một hoạt chất dược lý quan trọng chiết xuất từ Nhân sâm, đã được chứng minh là mang lại tiềm năng điều trị đầy hứa hẹn đối với tình trạng thiếu máu bất sản do tác động của cyclophosphamide – một loại thuốc hóa trị có khả năng gây suy giảm nghiêm trọng chức năng tạo máu của tủy xương. Với cơ chế tác động đa chiều, Rg1 không chỉ hỗ trợ phục hồi hoạt động của tế bào gốc tạo máu mà còn thúc đẩy quá trình tái tạo tế bào máu một cách tự nhiên và an toàn.
- Chiết xuất cồn từ Nhân sâm đã được chứng minh có khả năng làm giảm tiết orexin tại vùng dưới đồi, một neuropeptide quan trọng trong việc điều chỉnh trạng thái thức – ngủ. Thông qua tương tác với các thụ thể orexin, chiết xuất này ức chế hoạt động của mạng lưới tín hiệu PI3K/Akt/mTOR – một con đường tín hiệu then chốt liên quan đến sự phát triển tế bào và chuyển hóa năng lượng. Đồng thời, nó kích hoạt cơ chế tự thực bào (autophagy), góp phần vào việc duy trì cân bằng nội môi của hệ thần kinh.
- Độc tính của Nhân sâm: Cho chuột nhắt uống bột Nhân sâm gây nhiễm độc cấp tính, LD50 là trên 5 g/kg cân nặng, nếu tiêm thuốc vào dưới da chuột nhắt thì liều độc cấp LD50 là 16.5 ml/kg, cho chuột nhắt uống Nhân sâm theo liều lượng 100, 250, 500 mg/kg liên tục trong 1 tháng và theo dõi nhiễm độc bán cấp không thấy gì thay đổi khác thường ở súc vật thực nghiệm. Theo Kixêlev đã tiêm vào dưới da chuột nhắt 1 ml dung dịch Nhân sâm 20% thấy sau 10-12 giờ chuột chết với trạng thái “mất sắc nhưng cho uống thì độc tính rất ít”.
Sau đây là kết quả nghiên cứu Dược lý của Nhân sâm theo sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”.
- Tác dụng trên hệ thần kinh: Từ xưa tại Trung Quốc, người ta đã biết thí nghiệm tác dụng làm giảm mệt của Nhân sâm: Lý Thời Trân trong sách Bản thảo cương mục (thời kỳ 16) có ghi: Cho 2 người cùng chạy, một người ngậm Nhân sâm, một người không, sau khi chạy 3-5 dặm, người không ngậm Nhân sâm thở mạnh, còn người ngâm Nhân sâm thời bình thường. Trong những năm 1949-1951, tại Liên Xô, Abramôvi thí nghiệm theo phương pháp cho chuột nhắt lội nước, nhận thấy Nhân sâm có tác dụng làm đỡ mệt. Năm 1947, Lazarev đã nghiên cứu và kết luận Nhân sâm có tác dụng làm hưng phấn thần kinh trung ương dùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt, tăng hiệu suất công tác so với thuốc Phenamin tốt hơn. Năm 1955, Drake theo phương pháp của Zacuxov đã chứng minh liều điều trị của thần kinh và làm mau chuyển động của thần kinh, nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh (Chu Nhan, Chu Kim Hoàng, Trung Hoa Y học tạp chí, 12, 1956).
- Tác dụng trên huyết áp và tim: Các nhà nghiên cứu Liên Xô Burkrat, Xakhopov (1947) và Kixêlev (1948-1959) đã nghiên cứu nước sắc và cồn Nhân sâm kết luận rằng tác dụng của dung dịch nước và dung dịch rượu của Nhân sâm như sau: Kixêlev dùng dung dịch 5%, 10% và 20% Nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nồng độ càng cao tác dụng ức chế trên tim càng mạnh, nhưng nếu nồng độ thấp thì co bóp tim mạch và số lần co bóp càng tăng, do đó ông đã kết luận rằng Nhân sâm có hai hướng tác dụng trên thần kinh thực vật: liều nhỏ tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị.
- Tác dụng trên hô hấp: Năm 1947, Burkrat và Xakxopov đã báo cáo dùng 0.3-0.5 ml dung dịch Nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo thấy Nhâm sâm gây hưng phấn hô hấp. Một số nhà nghiên cứu Nhật bản và Trung Quốc trước đó tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất Ginsenin thấy liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm acid panaix hay chất Panaxen cũng thấy tác dụng tương tự.
- Tác dụng đối với chuyển hoá cơ bản: Năm 1922, hai tác giả Nhật Bản Bộ Thắng Mã và Nại Đằng Hệ Bình đã nghiên cứu tác động của bột Nhân sâm và chất tan trong cồn của Nhân sâm (đường uống và tiêm) đối với bệnh tăng đường huyết nhân tạo trên thỏ đều thấy có tác dụng rõ rệt làm hạ đường huyết. Năm 1954 và 1956, một số tác giả Trung Quốc cũng xác nhận tác dụng hạ đường huyết của Nhân sâm. Trên lâm sàng, Khâu Thần Ba (1955) nhận thấy nếu dùng Nhân sâm chung với liệu pháp insulin thì có thể giảm bớt được nồng độ Insulin, thời gian hạ đường huyết được kéo dài và chữa được bệnh.
- Tác dụng đối với sự sinh trưởng của động vật (máu lạnh hoặc máu nóng côn trùng): Cho uống hoặc tiêm thuốc chế bằng Nhân sâm hoặc các chất lấy từ Nhân sâm trên một số động vật so sánh với số không dùng sâm, thấy trọng lượng con vật tăng lên, thời gian giao cấu của con vật kéo dài, hiện tượng tình dục xuất hiện rõ nét.
- Tác dụng với sức chống đỡ bệnh tật: Những thí nghiệm của Daugolnikov (1950-1952), Brekhman và Phruentov (1954-1957) và Abramov (1953) cho biết Nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng của động vật đối với bệnh tật. Theo bài “Tình hình nghiên cứu Dược lý Nhân sâm” đăng trên tập san Dược học học báo, 12 (7), 477-484, 1965 cho biết Nhân sâm có tác dụng phòng và chữa bệnh loét dạ dày.
Ứng dụng lâm sàng
- Dùng Nhân sâm điều trị cấp cứu trong trường hợp bệnh nguy kịch (Đông y cho là thuộc chứng vong âm vong dương), khí thoát, chân tay lạnh, tự ra mồ hôi, mạch trầm vi tế hoặc trường hợp chảy máu nhiều, gây choáng (suy tuần hoàn cấp): dùng Nhân sâm để ích khí cứu thoát, hồi dương cứu nghịch, tuỳ tình hình chọn các bài:
Độc Sâm Thang: Nhân sâm 4-12g, chưng cách thuỷ cho uống, nên uống nhiều lần.
Sâm phụ thang: Nhân sâm 3-6g, Phụ tử chế 4-16g, sắc nước uống 6 lần, Dùng đối với trường hợp dương hư chân tay lạnh (choáng truỵ tim mạch) cần thực hiện Đông Tây Y kết hợp cấp cứu.
Cấp cứu trẻ sơ sinh trạng thái bệnh nguy kịch: Mỗi ngày dùng Hồng sâm thái mỏng 5-3g (tương đương 1g/kg cân nặng/ngày) cho nước 40-50 ml chưng trong 30 phút cho uống cứ 3 giờ/lần (nhỏ giọt vào mồm hoặc cho bằng ống xông qua mũi), mỗi lần 5 ml, 1 liệu trình 4-6 ngày dài là 10 ngày có phối hợp Tây Y cấp cứu, theo dõi 10 ca đều khỏi, thường sau 2-3 lần uống sâm, các triệu chứng đều được cải thiện trên lâm sàng (Vương Xích Mai và cộng sự). Theo dõi lâm sàng 30 ca trẻ sơ sinh điều trị bằng nước chưng Hồng sâm (Tạp chí nghiên cứu Trung thành dược 1987, 7, 34).
Dùng Hồng Sâm 30 g sắc nước cho uống liên tục đồng thời châm Bách hội 2 kim hướng trước và sau, cấp cứu 10 ca choáng do mất máu có tác dụng nâng áp (Táo Thuận Minh, Điều trị choáng, tạp chí Trung Y 1987, 4, 13).
Dùng Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị chế thành thuốc tiêm Sinh mạch (Hàm lượng mỗi ống có 0.57g thuốc sống, mỗi lần tiêm bắp hoặc tĩnh mạch từ 2-4 ml có kết quả tốt đối với bệnh nhồi máu cơ tim và choáng do tim) (Y viện Ma Khai, Thiên Tân, Dịch tiêm sinh mạch tứ nghịch, Thông tin Trung thảo dược 1972, 4, 21).
- Dùng trị chứng rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy kéo dài do Tỳ vị hư nhược, dùng phối hợp với Bạch truật, Bạch linh, …
Tứ quân tử thang: Nhân sâm 4g, Bạch truật 12g, Bạch linh 12g, Cam thảo 4g. sắc uống.
- Dùng trị các loại bệnh phổi như hen phế quản, viêm phế quản mạn tính, tâm phế mạn, dùng bài:
Nhân sâm định suyễn thang: Nhân sâm 8g (gói sắc riêng), Thục địa 20g, Thục phụ phiến 12g, Hồ đào nhục 16g, Tắc kè 8g, Ngũ vị tử 8g, sắc uống.
Nhân sâm hồ đào thang: Nhân sâm 4g, Hồ đào nhục 12g, sắc uống trị chứng hư suyễn.
- Trị bệnh cảm ở người vốn khí hư, dùng bài:
Sâm tổ ấm (cục phương): Nhân sâm 4g (sắc riêng), Tô diệp 12g, Phục linh 12g, Cát căn 12g, Tiền hồ 4g, Bán hạ (gừng chế) 4g, Trần bì 4g, Chỉ xác 4g, Cát cánh 4g, Mộc hương 3g (cho sau), Cam thảo 3g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 2g quả, sắc uống nóng cho ra mồ hôi.
- Trị chứng thiếu máu: Dùng các bài thuốc bổ huyết như Tứ vật thang, Đương qui bổ huyết thang, gia thêm Nhân sâm, kết quả tốt hơn.
- Trị tiểu đường: Thường dùng với các thuốc tư bổ thận âm như thục địa, Kỷ tử, Thiên môn, Sơn thù nhục, dùng bài:
Tiêu khát ẩm: Cát lâm sâm 8g (sắc riêng), Thục địa 24g, Kỷ tử 16g, Thiên môn đông 12g, Sơn thù nhục 12g, Trạch tả 16g, sắc uống.
Dùng độc vị Nhân sâm uống, theo báo cáo dùng cao lỏng Nhân sâm mỗi lần uống 0.5 ml ngày 2 lần, liệu trình tuỳ tình hình bệnh, nếu bệnh nhẹ có kết quả rõ, có thể làm hạ đường huyết 40-50 mg% ngưng thuốc có thể kéo dài thời gian ổn định trên 2 tuần, đối với thể trung bình tác dụng hạ đường huyết không rõ nhưng triệu chứng chung được cải thiện như khát nước giảm, đỡ mệt mỏi (Vương Bản Tường, kết quả nghiên cứu Dược lý Nhân sâm, Dược học học báo, 1965, 7, 477, ứng dụng lâm sàng vị Nhân sâm, Y học Cát lâm 1983, 5, 5).
- Trị liệt dương: Báo cao dùng Nhân sâm trị 27 ca, chức năng tính dục được hồi phục hoàn toàn 15 ca, 9 ca chuyển biến tốt, 3 ca không kết quả. Ngoài ra dùng uống nước chiết xuất 500mg/ngày để trị các trường hợp: Liệt dương, tảo tiết, phóng tinh yếu, tính dục suy giảm, đều có kết quả nhất định (Vương Bản Tường, Ứng dụng lâm sàng vị Nhân sâm, Cát Lâm Y học 1983, 5:54).
- Trị cao huyết áp và xơ mỡ động mạch: Các tác giả Liên Xô dùng cồn 20% Nhân sâm, mỗi lần 20 giọt, ngày 2 lần, đối với các chứng huyết cao, xơ mỡ động mạch, đau thắt tim, thần kinh tim và hở van tim, đều có kết quả nhất dịnh như cảm giác dễ chịu, bớt khó thở, bớt đau thắt tim, bớt đau đầu, ngủ tốt, điện áp sóng T và R được nâng cao … Ngưng thuốc 6-9 tháng, bệnh tình vẫn ổn định (Vương Bản Tường, Ứng dụng lâm sàng vị Nhân Sâm, Cát Lâm Y học 1983, 5:54).
Nhân sâm có tác dụng làm giảm mỡ trong máu ở người già, nhất là đối với Triglicerid. 80%, người được thí nghiệm cảm thấy thể lực và trí lực đều tăng, 54% mất ngủ được cải thiện, 40% chứng tinh thần trầm cảm giảm, rối loạn sắc tố da ở người già được cải thiện, bớt rụng tóc.
- Dùng trị chứng bệnh suy tuyến thượng thận mạn (bệnh Addison): Do Nhân sâm có tác dụng kháng lợi niệu nên ảnh hưởng tới chuyển hoá của nước muối như hocmon vỏ thượng thận glucose-corticoid. Theo báo cáo của Vương Bản Tường theo dõi 18 ca, bệnh nhân Addison cho uống cồn chiết xuất từ thân lá Nhân sâm 20% (tương đương 0,5g thuốc sống/ml, dùng từ 20-30ml ngày uống 3 lần và tăng dần liều đến 150-300ml/ngày). Liệu trình bình quân là 121 ngày. Sau điều trị, bệnh nhân lên cân, huyết áp được nâng lên, lực nắm bàn tay mạnh hơn, đường huyết lên, Natri huyết thanh tăng, thử nghiệm nước Corticoid và ACTH đều được cải thiện, giảm lắng đọng sắc tố ở da, đối với bệnh nhân điều trị sớm và ở giai đoạn bù trừ có kết quả tốt, có thể hồi phục khả năng lao động. Đối với bệnh muộn và không có khả năng bù trừ, cần dùng kết hợp với Corticoid có giảm liều (Báo Y học Cát Lâm 1983, 5, 54).
- Dùng trị chứng tỳ hư trẻ em: Theo báo cáo của Từ Hỷ Mai dùng Hồng sâm chữa cho 10 trẻ nằm viện có các triệu chứng đần độn, ra mồ hôi, sắc mặt tái nhợt, vàng bủng, đã được điều trị theo phác đồ chung gia Hồng sâm theo liều: Trẻ em dưới 3 tuổi, Hồng sâm 3g sắc được 30ml, trẻ trên 3 tuổi sắc lấy 60ml gia thêm đường mía, chia 2 lần uống trong ngày, một liệu trình 7-14 ngày. Thuốc có tác dụng làm trẻ ăn ngon, hết mồ hôi, lên cân, sắc mặt tươi hơn (theo báo Y Dược Trùng Khánh, 1984, 6:41).
- Dùng trị bệnh động mạch vành: Theo báo cáo của Dụ Hương Quần, dùng Tiểu hồng sâm chế thành dịch, tiêm hàm lượng 200mg/2ml/ống, dùng 6-10ml thuốc trộn với 40ml dung dịch Gluco 10% tiêm tĩnh mạch, ngày 1-2 lần. Tác giả theo dõi 31 ca: Đau thắt tim có kết quả 93.54% điện tâm đồ được cải thiện 76.66% đối với loạn nhịp tim cũng có tác dụng nhất định (Báo Y học An Huy 1988, 3:51).
- Trị chứng giảm bạch cầu: Chiết xuất saponin từ thân, rễ, lá Nhân sâm chế thành viên, mỗi lần dùng 50-100mg, ngày uống 2-3 lần, trị 38 ca hạ bạch hầu do hoá liệu, tỷ lệ kết quả 87% trên súc vật thực nghiệm cũng chứng minh thuốc có tác dụng tăng bạch cầu rõ và có khả năng kích thích chức năng tạo máu (theo Báo nghiên cứu phòng trị Ung thư 1987, 3:149).
- Dùng trị viêm gan cấp: Theo báo cáo của các học giả Liên Xô, uống cao lỏng Nhân sâm có khả năng làm cho nhu mô gan hồi phục nhanh hơn và làm giảm khả năng bệnh chuyển thành mạn tính (theo Báo Cát Lâm Y học 1983, 5:54).
Liều dùng và chú ý
4-10g có khi dùng đến 40g, tuỳ loại và mục đích dùng.
Ví dụ:
- Dùng làm thuốc bổ trị thiếu máu, trung khí hư hoặc âm hư, dùng Cát Lâm sâm 3-6g, sâm Triều Tiên 2-4g:
- Dùng để cường tim như trường hợp mất nước, suy tim, lượng dùng nhiều hơn Cát Lâm sâm 12-20g, sâm Triều Tiên 4-8g.
- Dùng để cấp cứu nguyên khí hư thoát trường hợp mất máu nhiều, Cát lâm sâm dùng 20-40g, sâm Triều Tiên 20-30g.
Trường hợp dùng bình thường để tăng sức thì 5-7 ngày uống 1 lần nhân sâm 6-8g là được. Dùng Nhân sâm còn cần chú ý thể tạng người dùng, nếu là người hàn thì nên dùng phối hợp với thuốc tính ấm như Can khương, nếu là người tạng nhiệt thì nên phối hợp với thuốc mát như Mạch môn, Sinh địa. Lúc dùng dạng thuốc sắc nên sắc riêng, nhỏ lửa rồi hoà chung với thuốc uống, dùng dạng bột mỗi lần 0.5-1g, ngày 1-2 lần.
Nhân sâm do vùng đất cây mọc, phương pháp bào chế và bộ phận dùng khác nhau mà dược lực có khác. Thường thì sâm mọc hoang và sống lâu năm là tốt nhất nhưng đắt và hiếm, dùng loại trồng thì có nhiều mà rẻ. Sâm mọc ở Cát Lâm, Liệu Ninh (Trung Quốc) và sâm Triều Tiên là tốt. Hồng sâm tính ôn dùng tót đối với dương khí hư.
Lúc dùng Sâm, cần lưu ý:
- Không dùng sâm đối với chứng thực nhiệt.
- Theo sách “Bản thảo kinh tập chú” thì “Nhân sâm phản Lê lô, Ố Tạo giác”, không nên cùng dùng.
- Theo sách “Dược đối” thì “Nhân sâm uý Ngũ linh chi” nhưng trong nhiều bài thuốc có hai vị cùng dùng có tác dụng ích khí hoạt huyết không phát hiện gây độc nên sách “Dược điển” (Trung Quốc) năm 1985 không có cấm dùng chung.
- Sách “Bản thảo tập yếu” ghi: “Nhân sâm uý la bạc”, nên trong thời gian uống Nhân sâm, không nên ăn củ cải và không nên uống trà để tránh giảm hiệu lực của thuốc. Nếu uống Nhân sâm mà đầy tức bụng khó chịu có thể dùng La bạc tử để giải độc (La bạc tử sắc uống).
- Lúc dùng Nhân sâm để bớt nóng có thể phối hợp Mạch môn, Sinh địa, để bớt đầy tức thì phối hợp với Trần bì, Sa nhân.
- Nhân sâm rất ít độc: uống cồn Nhân sâm 3% trong 100ml chỉ mang cảm giác khó chịu nhẹ, nếu uống 200ml hoặc lượng lớn bột Nhân sâm có thể bị trúng độc, sẽ nổi ban đỏ, ngứa, đau đầu, chóng mặt, sốt và xuất huyết. Xuất huyết là nhiễm độc cấp của Nhân sâm. Ở nước ngoài có báo cáo 1 ca chết vì uống 500ml cồn Nhân sâm và 1 em bé chết do uống nhiều nước sắc Nhân sâm.
- Cuống Nhân sâm (Nhân sâm lô) không có tác dụng gây nôn như sách cổ đã ghi. Có người dùng 1 lần 50g cũng không bị nôn (Báo Trung Y Bắc Kinh 1986, 1:30). Theo báo cáo của Vương Ngọc Hoa thuộc Công ty Dược liệu tỉnh Hà Bắc cho những bệnh nhân ở phòng khám mắc cái bệnh tiểu đường, liệt dương, huyết áp thấp, mất ngủ, cường giáp, bạch cầu và huyết sắc tố thấp, uống Hồng sâm lô mỗi người mỗi ngày từ 5-10g độc vị hoặc gia vào thang thuốc ngâm rượu sắc uống nhai hoặc uống bột, uống liên tục từ 3 đến 60 ngày, đã theo dõi 3500 lần người trong đó có 1500 lần người uống độc vị, tổng lượng mỗi người dùng Sâm lô 100-700g mà không có ai nôn, còn những triệu chứng bệnh lý được cải thiện rõ rệt, chứng minh Nhân sâm lô cũng có tác dụng chữa bệnh như Nhân sâm. Nghiên cứu Dược lý thực nghiệm cũng chứng minh thành phần hoá học các loại của cả hai đều giống nhau, còn phát hiện hàm lượng các thành phần hoá học ở cuống sâm lại cao hơn ở rễ sâm.
- Giới thiệu bài thuốc giải độc Nhân sâm của Lưu Trường Giang gồm: La bạc từ 25g, Sài hồ, Hương phụ, Mạch đông, Thiên đông, Ngũ vị tử, Viễn chí, Câu đằng, Cam thảo sống (mỗi thứ 15g), Đại táo 5 quả, sắc uống ngày 1 thang (đã dùng trị 61 ca nhiễm độc Nhân sâm đều khỏi (Báo Trung Y Giang Tô, 1988, 9:16)).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hao, X., Gao, Z., & Hu, M. (2025). Anti-tumor role and molecular mechanism of vanillic acid. Discover oncology, 16(1), 20. [Get link]
- Niu, Z., Liu, Y., Zhou, D., Feng, J., Hu, Y., He, Z., ... & Hu, W. (2025). Ginsenoside F2 from the leaves of Panax ginseng alleviates DSS-induced ulcerative colitis: An in silico analysis and in vivo investigation. Industrial Crops and Products, 225, 120458. [Get link]
- Lin, H., Xu, Y., Xiong, H., Wang, L., Shi, Y., Wang, D., ... & Wang, S. (2025). Mechanism of action of Panax ginseng alcohol extract based on orexin-mediated autophagy in the treatment of sleep and cognition in aged sleep-deprived rats. Journal of Ethnopharmacology, 337, 118907. [Get link]
- Park, S. H. (2024). Potential of ginsenoside Rg1 to treat aplastic anemia via mitogen activated protein kinase pathway in cyclophosphamide-induced myelosuppression mouse model. World Journal of Stem Cells, 16(11), 900. [Get link]
- Nasir, A., & Yabalak, E. (2024). Exploring natural herbs: their role in treating male infertility, enhancing sexual desire and addressing urological disorders. International Journal of Environmental Health Research, 1-27. [Get link]
- Kim, T. H. (2024). Ginsenosides for the treatment of insulin resistance and diabetes: Therapeutic perspectives and mechanistic insights. Journal of Ginseng Research. [Get link]
- Wang, W., Li, K., & Xiao, W. (2024). The pharmacological role of Ginsenoside Rg3 in liver diseases: A review on molecular mechanisms. Journal of ginseng research, 48(2), 129-139. [Get link]
- Zhang, H., Sun, Y., Fan, M., Zhang, Y., Liang, Z., Zhang, L., ... & Qi, W. (2023). Prevention effect of total ginsenosides and ginseng extract from Panax ginseng on cyclophosphamide‐induced immunosuppression in mice. Phytotherapy Research, 37(8), 3583-3601. [Get link]
- Tseng, L. W., Lu, Y. C., Yang, C. W., Chen, Y. C., & Chen, H. Y. (2023). Identifying the Network Pharmacology of Panax Ginseng in Digestive Diseases: Implications from the National Health Insurance Research Database. J Chin Med, 34(1), 77-94. [Get link]
- Xue, Q., Yu, T., Wang, Z., Fu, X., Li, X., Zou, L., ... & Yang, Y. (2023). Protective effect and mechanism of ginsenoside Rg2 on atherosclerosis. Journal of Ginseng Research, 47(2), 237-245. [Get link]
- Sukardiman, S., Mutiah, R., & Handayani, R. Potential and Mechanisms of Indigenous Indonesian Medicinal Plants in Treating Sexual Dysfunction: A Systematic Review and Pharmacological Network Overview. Available at SSRN 4974500. [Get link]
- Park, S. H., Chung, S., Chung, M. Y., Choi, H. K., Hwang, J. T., & Park, J. H. (2022). Effects of Panax ginseng on hyperglycemia, hypertension, and hyperlipidemia: A systematic review and meta-analysis. Journal of Ginseng Research, 46(2), 188-205. [Get link]
- Huang, Y., Liu, Z., Liu, S., Song, F., & Jin, Y. (2022). Studies on the mechanism of Panax Ginseng in the treatment of deficiency of vital energy dementia rats based on urine metabolomics. Journal of Chromatography B, 1191, 123115. [Get link]
- ZUO, T. T. (2020). Anewoleanolicacid-typesaponinfromrootsofPanaxginseng. Chinese Traditional and Herbal Drugs, 3623-3632. [Get link]
- Malathy, R., Prabakaran, M., Kalaiselvi, K., Chung, I. M., & Kim, S. H. (2020). Comparative polyphenol composition, antioxidant and anticorrosion properties in various parts of Panax ginseng extracted in different solvents. Applied Sciences, 11(1), 93. [Get link]
- Kim, Y. J., Kwon, J. Y., Go, H. Y., & Kong, K. H. (2017). A Case Report of Adrenal Insufficiency Treated with Korean Medicine. The Journal of Internal Korean Medicine, 38(5), 583-591. [Get link]
- Li, J., Hu, D., Song, X., Han, T., Gao, Y., & Xing, Y. (2017). The role of biologically active ingredients from natural drug treatments for arrhythmias in different mechanisms. BioMed Research International, 2017(1), 4615727. [Get link]
- Lin, H., Pi, Z., Men, L., Chen, W., Liu, Z., & Liu, Z. (2016). Urinary metabonomic study of Panax ginseng in deficiency of vital energy rat using ultra performance liquid chromatography coupled with quadrupole time-of-flight mass spectrometry. Journal of ethnopharmacology, 184, 10-17. [Get link]
- Coleman, C. I., Hebert, J. H., & Reddy, P. (2003). The effects of Panax ginseng on quality of life. Journal of clinical pharmacy and therapeutics, 28(1), 5-15. [Get link]